Bệnh ung thư ngày càng có nhiều biến chứng nguy hiểm tới sức khỏe và tính mạng của con người, đặc biệt có những bệnh ung thư chỉ gặp ở phụ nữ. Mặc dù có rất nhiều bệnh nguy hiểm có thể chữa trị nếu được phát hiện kịp thời nhưng hiện nay, do tâm lý chung của các chị em thường e ngại trong việc khám chữa bệnh phụ khoa nên các căn bệnh nguy hiểm tới tính mạng hầu như chỉ được phát hiện khi đã vào giai đoạn cuối.
Ung thư vú:
Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ, đặc biệt ở các nước phát triển. Ung thư vú nếu được phát hiện và điều trị sớm thì tỷ lệ sống sót là 90% và chất lượng sống của bệnh nhân được tăng lên rõ rệt. Nếu chưa di căn ra mô xung quanh và hạch bạch huyết tỷ lệ sống sót là 100%.
Những phụ nữ có một trong số nguy cơ tiềm ẩn như: tiền sử gia đình có chị, em gái, mẹ bị ung thư, người thừa cân, béo phì, hút thuốc lá,… cần đi khám, kiểm tra sàng lọc định kỳ.
Trong ung thư vú, các dấu ấn khối u có thể được sử dụng trong chẩn đoán ung thư vú gồm: CA15-3, CEA. Tuy nhiên, do độ nhạy của các dấu ấn khối u này trong chẩn đoán ung thư vú thấp, nhất là ở giá đoạn sớm, việc kết hợp giữa CA15-3 và CEA cũng chỉ nâng được độ nhạy lên khoảng gần 60%, nên chúng thường được sử dụng để theo dõi tiến triển của bệnh, hiệu quả điều trị và để phát hiện sớm tái phát. Do vậy khi có khối nghi ngờ tuyến vú, kết quả marker chỉ điểm ung thư trên tăng hoặc bình thường thì chị em cần chụp xạ hình tuyến vú và chọc hút tế bào.
Ung thư cổ tử cung:
Ung thư cổ tử cung đang là nguyên nhân gây tử vong thứ hai ở phái nữ. Tuổi thường gặp ung thư cổ tử cung là 30-59, đỉnh cao là 48-52 tuổi. Bệnh diễn ra âm thầm, không có dấu hiệu cụ thể để nhận biết, chỉ đến khi có những triệu chứng trên lâm sàng như ra máu bất thường không liên quan đến kỳ kinh hay sau khi giao hợp, ra khí hư, hôi, đau bụng vùng chậu, tiểu buốt,… xuất hiện thì bệnh đã ở giai đoạn muộn.
Đối với tầm soát ung thư cổ tử cung thì đặc hiệu hơn chị em phụ nên tầm soát định kỳ bằng tế bào âm đạo cổ tử cung. Ngoài ra, nếu có nghi ngờ chị em phụ nữ có thể làm xét nghiệm định typ HPV xem có bị nhiễm các typ virus có nguy cơ cao gây ung thư cổ tử cung hay không. Vì theo thống kê thì 70% các trường hợp ung thư cổ tử cung là do HPV 16, 18. Các dấu ấn khối u có thể được sử dụng trong chẩn đoán ung thư cổ tử cung tế bào vảy là SCC
Ung thư nội mạc tử cung:
Ung thư nội mạc tử cung thường được phát hiện ở giai đoạn đầu bởi vì nó thường xuyên tạo ra chảy máu âm đạo giữa chu kỳ kinh nguyệt hoặc sau khi mãn kinh. Các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư nội mạc tử cung có thể bao gồm: chảy máu sau mãn kinh, kéo dài thời gian hoặc chảy máu giữa chu kỳ, bất thường chảy ra từ âm đạo, đau vùng chậu, đau khi giao hợp,…Nếu ung thư nội mạc tử cung được phát hiện sớm, loại bỏ tử cung bằng phẫu thuật thường loại bỏ tất cả của ung thư.
Các dấu ấn khối u có thể được sử dụng trong chẩn đoán ung thư nội mạc tử cung gồm HE4 và CA125. Cả HE4 và CA125 có sự tương quan thuận có ý nghĩa với giai đoạn mô bệnh học, di căn hạch bạch huyết, xâm lấn nội mạc tử cung và cổ tử cung, đều tăng một cách có ý nghĩa theo giai đoạn của ung thư nội mạc tử cung. Sự kết hợp 2 dấu ấn HE4 và CA125 giúp dự đoán mức độ xâm lấn nội mạc, sự lan ra cổ tử cung và di căn hạch, có thể được sử dụng trong tiên lượng bệnh.
Ung thư buồng trứng:
Là loại ung thư phổ biến thứ 5 ở phụ nữ và được gọi là “sát thủ thầm lặng” đối với phụ nữ trên tuổi 55. Những triệu chứng có thể gặp như đau bụng và vùng chậu dữ dội, đến kinh nguyệt không đều và lông, tóc mọc quá mức.
Hiện nay có nhiều các dấu ấn khối u có thể được sử dụng trong chẩn đoán ung thư buồng trứng gồm: HE4, CA 125, CA15-3 và CA72-4
Ung thư nhau thai (ung thư nguyên bào nuôi):
Loại ung thư này có nguồn gốc từ sự đột biến gien của những tế bào nuôi, một thành phần trong số những tế bào chịu trách nhiệm hình thành các tổ chức có nhiệm vụ nuôi dưỡng bào thai như: bánh nhau, cuống rốn…Và thường rất hay gặp ở những sản phụ sau nạo hút thai chửa trứng. Do vậy, những sản phụ sau chửa trứng cần theo cần phải được theo dõi liên tục, 2 tuần 1 lần trong 3 tháng đầu, 4 tuần 1 lần trong 6 tháng kế tiếp và 8 tuần 1 lần trong 8 tháng tiếp theo.
Những dấu hiệu điển hình của ung thư nhau thai là chảy máu âm đạo bất thường, nghén nặng, chân phù nề sớm, bụng to nhanh và lớn hơn nhiều so với tuổi thai,…
β-hCG là dấu ấn khối u có thể được sử dụng trong chẩn đoán ung thư nhau thai. Trong bệnh nguyên bào lá nuôi thai ác tính mức độ β-hCG tăng hình cao nguyên trong ít nhất trong 3 tuần. β-hCG cũng tăng trong ung thư biểu mô nhau (choriocarcinoma), ung thư biểu mô phôi và u đa phôi (polyembryomas).
Vì các dấu ấn ung thư trong ung thư vú và ung thư phần phụ ở phụ nữ có độ nhạy kém, nhất là ở giai đoạn sớm của ung thư nên chúng chủ yếu được sử dụng để theo dõi tiến trình của bệnh, hiệu quả điều trị và sự tái phát của khối u.
Để chẩn đoán sớm các ung thư này cần có sự kết hợp giữa các dấu ấn khối u với các kỹ thuật cận lâm sàng khác như siêu âm, X quang, CT scan, PET scan và xét nghiệm tế bào học.